- Khoảng tiền thuê nhà trọ 1 tháng chấp nhận được là bao nhiêu? (Hãy cân nhắc số tiền "ngân hàng gia đình" chu cấp hàng tháng để xác định cho mình khoản tiền thuê trọ ở mức hợp lí nha!) Thuê nhà trọ nhỏ đặt cọc 1 tháng, thuê nhà nguyên căn đặt cọc trước
Điều 2: thỎa thuẬn vỀ viỆc giẢi quyẾt tiỀn ĐẶt cỌc - Các quyền và nghĩa vụ khác (ngoài những thỏa thuận trên) của bên nhận đặt cọc theo qui định tại Bộ luật Dân sự.
Phần yêu cầu chính là yêu cầu của người viết đơn đề nghị cá nhân/ tổ chức trong hợp đồng hoàn trả tiền cọc/ tạm ứng cho mình. Lưu ý cần ghi rõ giá trị của khoản tiền đó cả bằng số và bằng chữ. Bị phạt theo thỏa thuận trước hoặc quy định của hợp đồng đã ký kết. Lưu ý khi đề nghị hoàn trả tiền
Nếu hợp đồng đặt cọc mua nhà của Bạn không được soạn thảo trực tiếp bởi luật sư mà là tự soạn thảo Bạn cần chú ý những điều khoản chính yếu như sau: Thủa thuận đền cọc, mất cọc nếu có qui định khác. Lưu ý thêm là bên bán cần đứng tên cả vợ và
Tiền đặt cọc được Bên A trả lại Bên B theo thỏa thuận quy định tại Điều 2 Hợp đồng này sau khi đã trừ đi các chi phí liên quan đến việc sử dụng ngôi nhà và trả tiền bồi thường 01 (một) tháng tiền thuê nhà. Thay mặt bên B thực hiện các nghĩa vụ về thuế theo quy định (Có sự hỗ trợ của Bên A) h) Các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.
. Tranh chấp về tiền đặt cọc tiền thuê nhà Ngày đăng 30/01/2015 Xin hỏi Luật sư tư vấn về trường hợp thực tế như sau A thuê phòng của B chủ nhà, địa điểm thuê tại Bình Thạnh. Hai bên ký kết hợp đồng thuê nhà, thời hạn thuê là 1 năm từ 06/2013 - 05/2014. Theo hợp đồng thì A phải đặt cọc cho B số tiền của 1 tháng tiền thuê nhà trong suốt thời gian thuê tuy nhiên hợp đồng không ghi rõ điều khoản này mà chỉ ghi đặt cọc 1 tháng tiền thuê nhà. Ngoài ra, trên hợp đồng cũng không có điều khoản về việc xử lý tiền đặt cọc như thế nào cấn trừ vào tháng cuối cùng/trả lại cho bên thuê khi hết thời hạn thuê. Đến 05/2014 thì hết hạn hợp đồng, 2 bên thỏa thuận tiếp tục hợp đồng thỏa thuận bằng miệng, không làm phụ lục gia hạn thời hạn thuê. Và đến 01/2015 thì 2 bên chấm dứt hợp đồng, bên A đã thanh toán đầy đủ tiền thuê nhà tháng 01/2015 nhưng bên B không trả lại tiền đặt cọc cho bên A với lý do là tiền cọc đã cấn trừ vào tháng cuối cùng. Việc thanh toán tiền nhà hàng tháng được trả bằng tiền mặt không có xác nhận là bên B đã nhận đủ tiền/bên A đã thanh toán đầy đủ. Trong trường hợp trên thì bên A nhận lại tiền đặt cọc hay không? Và phải tiến hành những thủ tục gì? 7486 Cảm ơn Phản hồi Chủ đề đang được đánh giá Click vào bảng để xem hiển thị đầy đủ thông tin Bạn vui lòng đăng nhập hoặc Đăng ký tại đây để tham gia thảo luận
Mẹo nhỏ Để tìm kiếm chính xác các bài viết của AZLAW, hãy search trên Google với cú pháp "Từ khóa" + "azlaw". Ví dụ thành lập công ty azlaw. Tìm kiếm ngayĐòi lại tiền đặt cọc như thế nào? Cách thức đòi lại tiền đặt cọc hợp pháp theo quy định pháp luật Lúc lên HN học đại học, cháu có thuê nhà trọ của một bác với hợp đồng 6 tháng và cháu phải đặt cọc một tháng tiền nhà là 2 triệu, cháu chỉ đưa tiền mà không viết giấy tờ gì cả. Bây giờ cháu chuyển đi thì bác ấy không chịu trả lại tiền với lý do là cháu mới ở được 4 tháng. Trước khi chuyển đi cháu có báo với bác ấy trước một tháng và bác ấy cũng đã đồng ý. Trong trường hợp này cháu phải làm như thế nào ạ? Cháu có lấy lại được tiền cọc không? Trả lời Theo quy định tại Điều 328 Bộ luật dân sự năm 2015 về đặt cọc quy định như sau Điều 328. Đặt cọc1. Đặt cọc được thực hiện là việc một bên đặt cọc giao cho bên kia bên nhận đặt cọc một khoản tiền hoặc kim khí quý, đá quý hoặc vật có giá trị khác gọi là tài sản đặt cọc trong cùng một thời hạn thì sẽ bảo đảm giao kết hoặc thực hiện hợp Trường hợp hợp đồng được giao kết, thực hiện thì tài sản đặt cọc được trả lại cho bên đặt cọc hoặc được trừ để thực hiện nghĩa vụ trả tiền; nếu bên đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng thì tài sản đặt cọc thuộc về bên nhận đặt cọc; nếu bên nhận đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng thì phải trả cho bên đặt cọc tài sản đặt cọc và một khoản tiền tương đương giá trị tài sản đặt cọc, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Xem thêm Đặt cọc là gì? Như vậy, trong trường hợp của bạn được hiểu việc bạn đặt cọc cho chủ nhà là để thực hiện hợp đồng thuê nhà, bảo đảm cho bạn thực hiện đúng những thỏa thuận trong hợp đồng ví dụ như không chấm dứt hợp đồng trước thời hạn, giữ gìn tài sản của người cho thuê…. Về nguyên tắc, tiền đặt cọc sẽ được trả lại cho bên đặt cọc hoặc được trừ để được thực hiện về nghĩa vụ trả tiền khi hợp đồng được giao kết. Khoản 2 Điều 131 Luật nhà ở năm 2014 quy định trường hợp thuê nhà ở không thuộc sở hữu nhà nước thì việc chấm dứt hợp đồng thuê nhà ở được thực hiện khi có một trong các trường hợp sau– Hợp đồng thuê nhà ở hết hạn; trường hợp trong hợp đồng không xác định thời hạn thì hợp đồng chấm dứt sau 90 ngày, kể từ ngày bên cho thuê nhà ở thì phải có thông báo cho bên thuê nhà ở biết việc chấm dứt hợp đồng;– Hai bên thỏa thuận chấm dứt hợp đồng…. Bên cạnh đó, Điều 132 Luật nhà ở năm 2014 cũng quy định Bên thuê nhà ở sẽ có quyền tự đơn phương chấm dứt hợp đồng thuê nhà ở khi bên cho thuê nhà ở có một trong các hành vi sau đây– Không sửa chữa nhà ở khi có hư hỏng nặng;– Tăng giá thuê nhà ở bất hợp lý hoặc tăng giá thuê nhà mà không thông báo cho bên thuê nhà biết trước theo thỏa thuận;– Khi quyền sử dụng nhà ở bị hạn chế do lợi ích của người thứ ba. Bên đơn phương chấm dứt thực hiện những hợp đồng thuê nhà thì phải thông báo cho bên kia biết trước ít nhất 30 ngày, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác; nếu vi phạm quy định tại khoản này mà gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật . Xem thêm Phạt cọc khi chấm dứt hợp đồng thuê nhà Theo thông tin bạn cung cấp, trước khi đơn phương chấm dứt hợp đồng thuê nhà, bạn đã thông báo trước 1 tháng cho bác chủ nhà và đã được bác chủ nhà đồng ý. Như vậy, trường hợp của bạn được xem là trường hợp chấm dứt hợp đồng thuê nhà do hai bên thỏa thuận theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 131 Luật nhà ở năm 2014. Theo đó, nếu hai bên đã thỏa thuận về việc chấm dứt hợp đồng thì phía bên nhận đặt cọc bên cho thuê nhà sẽ phải trả lại tài sản đặt cọc cho bên đặt cọc là bạn. Để đòi lại tài sản là tiền đặt cọc, trước tiên bạn cần thương lượng với chủ nhà về nghĩa vụ bên cho thuê nhà phải trả lại tiền đặt cọc. Trong trường hợp bên cho thuê không đồng ý, bạn có thể gửi đơn khởi kiện yêu cầu giải quyết tranh chấp đến Tòa án cấp huyện nơi có bất động sản tức là nơi có nhà cho thuê để được giải quyết. Tuy nhiên, theo quy định đặt cọc phải được lập thành văn bản để có thể chứng nhận việc đặt cọc đó, trong khi việc đặt cọc của bạn lại không có bất kì việc thỏa thuận, văn bản nào. Do đó, nếu bạn có người làm chứng hay bất cứ đoạn ghi âm hay chứng cứ gì để chứng minh cho việc đặt cọc để có thể yêu cầu đòi lại tiền cọc. Nếu không thì rủi ro không đòi lại được tiền đặt cọc khi thuê nhà của bạn khá lớn.
Trong bối cảnh dịch Covid, nhà nước ban hành nhiều quy định về giãn cách xã hội khiến cho nhiều cơ sơ kinh doanh phải tạm ngừng hoạt động. Điều này đã làm cho nhiều doanh nghiệp, cơ sở kinh doanh xảy ra vấn đề tranh chấp hợp đồng thuê nhà, thuê mặt bằng khi cắt giảm chi phí hoạt động. Tranh chấp hợp đồng thuê nhà giải quyết như thế nào? VÌ cả bên thuê và bên cho thuê đều có những vấn đề khó khăn của riêng mình dẫn tới các bên không đạt được thỏa thuận về việc chấm dứt hợp đồng, từ đó phát sinh tranh chấp hợp đồng thuê nhà. Do đó, với mục đích giúp các bên nhận thấy được các vấn đề của mình dưới góc độ pháp lý, chúng tôi xin cung cấp một số nội dung được trình bày ngay trong bài viết này. Những điều quy định khi phát sinh tranh chấp là gì? Quy định về hợp đồng thuê nhà Căn cứ theo quy định tại Bộ luật dân sự 2015, Luật nhà ở 2014 thì hợp đồng thuê nhà được xem là một dạng của hợp đồng thuê tài sản, dựa trên sự thỏa thuận của các bên, theo đó bên cho thuê nhà sẽ giao nhà cho bên thuê để sử dụng có thời hạn, bên thuê có nghĩa vụ phải trả tiền thuê. Về hình thức của hợp đồng thuê nhà phải được lập thành văn bản, tuy nhiên không bắt buộc phải công chứng giống như hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Tuy nhiên, để bảo đảm về giá trị pháp lý của hợp đồng thuê nhà khi xảy ra tranh chấp thì các bên nên thực hiện việc công chứng để bảo vệ quyền và lợi ích của mình một cách tốt nhất. Bên thuê nhà cần đảm bảo các vấn đề gì? Ngoài ra, khi thuê nhà, để tránh rủi ro phát sinh tranh chấp, bên thuê nhà cần phải xem xét các yếu tố sau Có Giấy chứng nhận theo quy định của pháp luật, trừ trường hợp ngoại lệ quy định tại Khoản 2, Điều 117 Luật Nhà ở 2014; Không thuộc diện đang có tranh chấp, khiếu nại, khiếu kiện về quyền sở hữu; đang trong thời hạn sở hữu nhà ở đối với trường hợp sở hữu nhà ở có thời hạn; Không bị kê biên để thi hành án hoặc không bị kê biên để chấp hành quyết định hành chính đã có hiệu lực pháp luật của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; Không thuộc diện đã có quyết định thu hồi đất, có thông báo giải tỏa, phá dỡ nhà ở của cơ quan có thẩm quyền. Việc xác định pháp lý căn nhà, mặt bằng thuê ngay từ đầu như trên sẽ hạn chế tối đa phát sinh tranh chấp tranh chấp hợp đồng thuê nhà giữa các bên. Vấn đề tiền đặt cọc thuê nhà khi xảy ra tranh chấp Một trong những nghĩa vụ quan trọng trong bất cứ một hợp đồng thuê nhà đó là việc đặt cọc. Việc này đảm bảo việc thực hiện nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng thuê nhà. Điều này có giá trị ràng buộc với bên thuê về nghĩa vụ thuê nhà của mình, bên cho thuê về nghĩa vụ phải giao nhà cho bên cho thuê và các bên phải thực hiện thuê và cho thuê trong một thời gian xác định theo thỏa thuận giữa các bên. Tiền đặt cọc sẽ được giải quyết như thế nào? Trường hợp các bên có vi phạm bất cứ nghĩa vụ nào, nếu không quy định cụ thể về hậu quả phải chịu đối với số tiền đặt cọc thì sẽ áp dụng theo quy định về đặt cọc của Bộ luật dân sự 2015, cụ thể tại Khoản 2, Điều 328 như sau “Trường hợp hợp đồng được giao kết, thực hiện thì tài sản đặt cọc được trả lại cho bên đặt cọc hoặc được trừ để thực hiện nghĩa vụ trả tiền; nếu bên đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng thì tài sản đặt cọc thuộc về bên nhận đặt cọc; nếu bên nhận đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng thì phải trả cho bên đặt cọc tài sản đặt cọc và một khoản tiền tương đương giá trị tài sản đặt cọc, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.” Đây cũng là một trong những tranh chấp hợp đồng thuê nhà phát sinh cần được giải quyết khi các bên chấm dứt hợp đồng. Vì bên thuê luôn muốn đòi lại số tiền đặt cọc này trong khi bên cho thuê vì nhiều lý do lại không muốn trả tiền cọc dẫn đến phát sinh tranh chấp. Hướng dẫn giải quyết tranh chấp hợp đồng thuê nhà? Đối với các trường hợp bất khả kháng như dịch bệnh, thiên tai, hoặc do bên cho thuê tự ý nâng giá tiền mà bên thuê không chấp nhận khiến các bên muốn chấm dứt và xảy ra tranh chấp hợp đồng thuê nhà,... Tùy trường hợp, các bên sẽ có những lập luận và lý lẽ riêng để bảo vệ lợi ích của mình nhưng nhìn chung thì sẽ trải qua các giai đoạn sau Giai đoạn 1 Thương lượng, hòa giải giữa các bên Điều đầu tiên khi xảy ra tranh chấp thì các bên nên tiến hành hòa giải và trình bày khó khăn của mình cho bên còn lại để các bên có thể tìm tiếng nói chung để giải quyết vấn đề một cách nhanh chóng và tích cực. Tuy nhiên, rất ít trường hợp vụ việc có thể giải quyết tranh chấp hợp đồng thuê nhà ở giai đoạn này vì thế cần thực hiện giai đoạn 2, có sự tham gia của bên thứ ba đứng ra là người giải quyết vụ việc. Giai đoạn 2 Khởi kiện tại Tòa án nhân dân có thẩm quyền Ở giai đoạn này, bên cho rằng quyền và lợi ích của mình bị xâm phạm có thể yêu cầu Tòa án giải quyết và quyết định, bản án của Tòa án sẽ có hiệu thi hành sẽ đối với các bên. Kinh nghiệm cần lưu ý khi phát sinh vấn đề tranh chấp thuê nhà, mặt bằng. Nhìn chung, có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến phát sinh tranh chấp hợp đồng thuê nhà, mỗi trường hợp lại có phương án giải quyết cũng như luận điểm bảo vệ khác nhau. Do đó trong trường hợp phát sinh tranh chấp không mong muốn, các bên nên được tư vấn bởi những tổ chức hành nghề luật để được giải thích, làm rõ, tránh các trường hợp tự ý thực hiện việc chấm dứt, điều này có khả năng sẽ dẫn tới nhiều hậu quả pháp lý nặng nề về sau. Công ty Luật TNHH Ngọc Phú – Hãng luật NPLaw Trụ sở chính 139H4 Lý Chính Thắng, phường Võ Thị Sáu, quận 3, TP. Hồ Chí Minh Chi nhánh Nha Trang Số 3M, tầng trệt chung cư CT2, khu đô thị VCN Phước Hải, đường Tố Hữu, phường Phước Hải, Trang, Khánh Hòa. Hotline 0913449968 Email legal
TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THANH KHÊ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG BẢN ÁN 36/2021/DS-ST NGÀY 26/10/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG ĐẶT CỌC THUÊ NHÀTrong ngày 26 tháng 10 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Thanh Khê, TP Đà Nẵng, Tòa án xét xử sơ thẩm canh khai vụ án thụ lý số 31/2021/TLST-DS ngày 24/03/2021 về việc “Tranh chấp hợp đồng đặt cọc thuê nhà" theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 31/2021/QĐXXST-DS ngày 05/08/2021 giữa các đương sự- Nguyên đơn Anh Ngô Văn L, sinh năm 2000; địa chỉ K114/25 đường L, quận T, thành phố Đà Nẵng; địa chỉ liên hệ Thôn 1, xã E, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. Có đơn xin xét xử vắng Bị đơn Chị Phạm Hà Mỹ H, sinh năm 1990; địa chỉ Số 22 đường Phần L, phường A, quận T, thành phố Đà Nẵng. Vắng mặt không có lý Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan+ Anh Nguyễn Văn Việt H, sinh năm 2000; địa chỉ K114/25 đường L, quận T, thành phố Đà chỉ liên hệ Thôn 1, xã E, thành phố B, tỉnh Đắk Đắk. Vắng mặt không có lý do.+ Anh Nguyễn Trọng Phương N, sinh năm 2000; địa chỉ K114/25 đường L Độ, quận T, thành phố Đà chỉ liên hệ Thôn KrongA, xã E, thành phố B, tỉnh Đắk Đắk Vắng mặt không có lý do.+ Anh Huỳnh Ngọc H, sinh năm 2000; địa chỉ K114/25 đường L, quận T, thành phố Đà Nẵng. Địa chỉ liên hệ Thôn 4, xã H, thành phố B, tỉnh Đắk Đắk Vắng mặt không có lý DUNG VỤ ÁN* Theo đơn khởi kiện và tại các bản tự khai nguyên đơn anh Ngô Văn L trình Vào ngày 03/07/2020 chị Phạm Hà Mỹ H và anh Ngô Văn L có ký giấy đặt cọc cho thuê nhà để anh L được thuê nhà tại địa chỉ 108/25 đường Điện Biên Phủ, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng, giá thuê nhà mỗi tháng là Bốn triệu năm trăm ngàn đồng, hai bên cam kết đến 11 giờ 30 phút ngày 10/7/2020 sẽ tiến hành ký hợp đồng thuê nhà chính thức, ngoài ra còn cam kết đến ngày ký hợp đồng chính thức bên thuê nhà không thuê sẽ mất tiền cọc, bên cho thuê nhà không cho thuê nhà sẽ bồi thường tiền gấp đôi tiền 10/7/2020 anh L và Chị H ký hợp đồng thuê nhà để anh L được thuê nhà tại địa chỉ 108/25 đường Điện Biên Phủ, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng, giá thuê nhà mỗi tháng là Bốn triệu năm trăm ngàn đồng, thời gian thuê là 06 tháng kể từ ngày 10/7/2020, anh L phải thanh toán xong tiền thuê nhà 06 tháng với số tiền 08/12/2020 Chị H thông báo với anh L bằng thư tín điện tử sẽ dừng việc cho anh L thuê nhà vào ngày hết hạn của hợp đồng thuê nhà là ngày 10/1/ 07/1/2021 anh L và Chị H có hẹn gặp nhau tại địa chỉ 108/25 đường Điện Biên Phủ, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng vào ngày 10/1/2021 để Chị H trả lại cho anh L số tiền đặt cọc thuê nhà là đồng thời anh L giao trả lại nhà đang thuê cho Chị H, Chị H đã không đến để thanh toán tiền cọc cho anh L. Nhiều ngày sau đó anh L và Chị H đã trao đổi qua tin nhắn, anh L yêu cầu Chị H thanh toán lại số tiền cọc, Chị H đồng ý trả lại số tiền cọc nhưng Chị H đề nghị anh L cho chị thời gian để chị kiếm người có thuê lại nhà hoặc bán nhà. Anh L thấy Chị H cố tình không thanh toán nên ngày 19/1/2021 anh L đã kiện Chị H tại Tòa án nhân dân quận Thanh Khê đề nghị Tòa án buộc chị Phạm Hà Mỹ H thanh toán lại số tiền cọc là Bốn triệu năm trăm ngàn đồng.Ngoài ra, trong bản khai anh L còn trình bày anh L chỉ là người đại diện để ký hợp đồng thuê nhà với Chị H, thực tế thuê nhà tại địa chỉ trên gồm có các anh Nguyễn Văn Việt H, anh Nguyễn Trọng Phương N và anh Huỳnh Ngọc H cùng thuê án nhân dân quận Thanh Khê đã tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án, nhiều lần tống đạt hợp lệ giấy triệu tập và thông báo hòa giải cho chị Phạm Hà Mỹ H và những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan nhưng Chị H không có văn bản phản hồi và cũng như những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đều vắng mặt không có lý do theo giấy triệu tập của Tòa án, nên Tòa án khanh thể tiến hành hòa giải cho các bên đương sư phiên tòa lần thứ hai chị Phạm Hà Mỹ H và những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt không có lý ĐỊNH CỦA TÒA ÁNCăn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Tòa án nhận định[1] Về thủ tục tố tụngTranh chấp hợp đồng đặt cọc thuê nhà ngày 03/10/2020 giữa anh Ngô Văn L và chị Phạm Hà Mỹ H thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng theo quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân khi Toà án thụ lý vụ án cho đến khi xét xử Chị H và những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đều vắng mặt không có lý do theo giấy triệu tập; thông báo của Toà án, Chị H không có ý kiến phản hồi đối với các yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, không tham gia các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, không tham gia các phiên hoà giải nên Tòa án không thể tiến hành hòa giải cho các đương sự Ngô Văn L có đơn xin xét xử vắng mặt nên Tòa án căn cứ vào khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt anh Ngô Văn án nhân dân quận Thanh Khê đã tống đạt hợp lệ giấy triệu tập, quyết định đưa vụ án ra xét xử cho chị Phạm Hà Mỹ H và những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan nhưng Chị H và những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt không có lý do. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự để xét xử vắng mặt chị Phạm Hà Mỹ H và những người có quyền lợi nghĩa vị liên quan.[2] Về nội dung vụ án Căn cứ vào giấy đặt cọc ngày 03/07/2020 giữa chị Phạm Hà Mỹ H và anh Ngô Văn L đã ký để anh L được thuê nhà tại địa chỉ 108/25 đường Điện Biên Phủ, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng với số tiền cọc là ngày 10/7/2020 anh L và Chị H đã ký hợp đồng thuê nhà để anh L được thuê nhà tại địa chỉ 108/25 đường Điện Biên Phủ, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng với giá thuê nhà hàng tháng là Bốn triệu năm trăm ngàn đồng, thời hạn thuê là 06 tháng kể ngày 10/7/2020, anh L phải thanh toán xong số tiền thuê 06 tháng với số tiền là 08/12/2020 Chị H thông báo với anh L sẽ chấm dứt việc cho anh L thuê nhà tại địa chỉ trên vào ngày hết hạn của hợp đồng là vào ngày 10/1/2021, và hẹn gặp tại địa chỉ 108/25 đường Điện Biên Phủ, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng để Chị H trả lại cho anh L số tiền đặt cọc thuê nhà là đồng thời anh L giao trả lại nhà đang thuê cho Chị H, nhưng Chị H đã không đến và không trả lại tiền cọc cho anh L.[3] Tại phiên tòa sơ thẩm anh L có đơn xin vắng mặt nhưng yêu cầu chị Phạm Hà Mỹ H trả lại số tiền cọc là thì thấy hợp đồng đặt cọc ngày 03/10/2020 giữa anh L và Chị H về hình thức và nội dung phù hợp với quy đinh của pháp luật, là biện pháp để bảo đảm thực hiện hợp đồng thuê nhà ngày 10/7/2020 để anh L thuê nhà tại địa chỉ 108/25 đường Điện Biên Phủ, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng với giá thuê nhà mỗi tháng là thời hạn thuê là 06 tháng kể ngày 10/7/2020, anh L phải thanh toán đủ số tiền thuê nhà 06 tháng là Ngày 08/12/2020 Chị H đã thông báo cho anh L sẽ chấm dứt việc cho anh L thuê nhà khi hợp đồng hết hạn là ngày 10/1/2021, như vậy các bên đã thực hiện xong hợp đồng thuê nhà ngày 10/7/2020 không có tranh thời, các bên đã hẹn gặp nhau, để Chị H trả lại tiền cọc và anh L giao trả lại nhà, nhưng Chị H đã không thực hiện việc trả lại tiền cọc, Chị H cũng có nhiều tin nhắn gửi anh L cam kết sẽ trả lại tiền cọc cho anh L, nhưng Chị H cho rằng do chưa tìm được người thuê nhà và cũng chưa bán được nhà nên Chị H chưa có tiền trả lại cho anh L và xin anh L cho thêm thời nhận định trên HĐXX có đủ cơ sở kết luận Chị H đã vi phạm hợp đồng đặt cọc mà các bên đã ký kết do vậy chấp nhận toàn bộ đơn khởi kiện của anh Ngô Văn L buộc chị Phạm Hà Mỹ H phải trả lại cho anh Ngô Văn L số tiền đặt cọc là Bốn triệu năm trăm ngàn đồng, là có cơ sở phù hợp với quy định tại Điều 116 và Điều 328 Bộ luật dân sự 2015 [4] Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn chị Phạm Hà Mỹ H phải chịu án phí là Vì các lẽ trên;QUYẾT ĐỊNHCăn cứ các khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 235 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân cứ các Điều 116 và 328 Bộ luật dân cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;Tuyên xử 1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện về việc "Tranh chấp Hợp đồng đặt cọc thuê nhà" của anh Ngô Văn L đối với chị Phạm Hà Mỹ chị Phạm Hà Mỹ H phải trả cho anh Ngô Văn L số tiền là Bốn triệu năm trăm ngàn đồng.Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án mà người phải thi hành án không thực hiện nghĩa vụ trả tiền, thì người phải thi hành án phải chịu tiền lãi trên số tiền phải thi hành tương ứng với thời gian chậm thi hành theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận nhưng phải phù hợp với quy định của pháp luật, nếu không thỏa thuận được về mức lãi suất thì quyết định theo mức lãi suất được quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân Án phí Dân sự sơ thẩm Chị Phạm Hà Mỹ H phải chịu là Ba trăm ngàn đồng.Hoàn trả cho anh Ngô Văn L số tiền tạm ứng án phí là đã nộp theo biên lai thu số 9079 ngày 24/3/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Thanh Khê, thành phố Đà Nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết canh hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sựNguồn
Trong các giao dịch mua bán nhà ở nhằm đảm bảo được quyền và nghĩa vụ của các bên cũng như giao kết được thực hiện. Các bên đã thỏa thuận và lập hợp đồng đặt cọc. Thế nhưng, hiện nay việc tranh chấp hợp đồng đặt cọc mua bán nhà xảy ra vẫn rất phổ biến. Cùng Đo Vẽ Nhanh tìm hiểu sâu hơn về vấn đề này qua bài viết dưới đây nhé. Đặt cọc là gì?Những dạng tranh chấp hợp đồng đặt cọc mua bán nhà phổ biếnThứ nhất Tranh chấp về mức phạt cọcThứ hai Tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của các bên tranh chấp Thứ ba Tranh chấp về cam kết của các bênPhương thức giải quyết Thương lượngHòa giảiKhởi kiện tại Tòa Đặt cọc là gì? Theo quy định tại điều 328 của Bộ luật dân sự 2015, đặt cọc là việc 1 bên sau đây gọi là bên đặt cọc giao cho bên kia gọi là bên nhận đặt cọc 1 khoản tiền, đá quý, kim khí quý hoặc vật có giá trị khác tài sản đặt cọc trong một khoảng thời gian nhằm đảm bảo thực hiện hợp đồng. Bản chất của việc đặt cọc chính là một quy định nhằm đảm bảo thực hiện nghĩa vụ. Vì vậy khi mua nhà ở, đất hay thuê nhà,… hợp đồng đặt cọc được lập ra, việc đặt cọc bao nhiêu thông thường là do các bên thỏa thuận. Đặt cọc là việc bên đặt cọc giao cho bên nhận đặt cọc một khoản tiền, đá quý, kim khí quý hoặc vật có giá trị Trường hợp hợp đồng được giao kết và thực hiện, tài sản đặt cọc sẽ được hoàn trả cho bên đặt cọc hoặc trừ để thực hiện nghĩa vụ trả tiền. Tuy nhiên, trường hợp 1 trong hai bên không thực hiện đúng, hoặc không thực hiện, dẫn tới tranh chấp hợp đồng đặt cọc mua bán nhà, đất,… Nếu như các bên không thỏa thuận được thì bắt buộc phải có sự can thiệp của pháp luật. Hiện nay, theo Bộ luật dân sự 2015, hợp đồng đặt cọc mua bán nhà không bắt buộc phải lập thành văn bản. Cũng như không bắt buộc phải công chứng chứng thực theo quy định của Luật nhà ở năm 2014, Luật Đất đai 2013. Tuy nhiên, để tránh các tranh chấp hoặc rủi ro xảy ra thì các bên nên lập thành văn bản và công chứng chứng thực. Hợp đồng đặt cọc mua bán nhà không bắt buộc phải công chứng, chứng thực Tranh chấp hợp đồng đặt cọc mua bán nhà thường được thể hiện dưới những dạng như sau Thứ nhất Tranh chấp về mức phạt cọc Căn cứ vào khoản 2 điều 328 của Bộ luật dân sự 2015 nếu như các bên không có thỏa thuận khác về mức phạt cọc, thì được thực hiện như sau Nếu bên đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng, tài sản đặt cọc thường là tiền đặt cọc sẽ thuộc về bên nhận đặt cọc. Trường hợp bên nhận đặt cọc từ chối thực hiện hợp đồng thì phải có nghĩa vụ trả cho bên đặt cọc tài sản đặt cọc và một khoản tiền tương đương giá trị tài sản đặt cọc phạt cọc. Mức phạt cọc có thể do hai bên thỏa thuận Nếu như các bên có thỏa thuận khác về mức phạt cọc như phạt gấp đôi, gấp ba lần tiền cọc thì thực hiện theo thỏa thuận đã ghi trên hợp đồng. Thứ hai Tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của các bên tranh chấp Đây chính là dạng tranh chấp nội dung điều khoản quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng. Thứ ba Tranh chấp về cam kết của các bên Khi đặt cọc, người sử dụng đất hay chủ sở hữu nhà ở sẽ cam kết tính pháp lý của quyền sử dụng đất, nhà ở. Nhà đất hiện không có tranh chấp, không bị kê biên để đảm bảo thi hành án, không bị thế chấp và còn trong thời hạn sử dụng đất. Tuy nhiên, có nhiều trường hợp bên nhận đặt cọc lừa dối, không nói đúng sự thật, dẫn tới xảy ra các tranh chấp. Hợp đồng đặt cọc vô hiệu khi giả tạo Phương thức giải quyết Khi xảy ra tranh chấp chúng ta thường áp dụng ba cách giải quyết như sau Thương lượng Đây là biện pháp được nhà nước khuyến khích các bên thực hiện khi có tranh chấp xảy ra. Theo đó, các bên tự mình bàn bạc và tháo gỡ những bất đồng, mâu thuẫn. Thương lượng là cách giải quyết tranh chấp đơn giản, không mất nhiều thời gian, tiền bạc mà vẫn giữ được tình cảm đôi bên. Phương thức thương lượng được ưu tiên hàng đầu Hòa giải Là phương thức giải quyết tranh chấp hợp đồng đặt cọc có sự tham gia của bên thứ ba làm trung gian hòa giải nhằm hỗ trợ, thuyết phục và giải thích cho các bên. Bên thứ ba có thể là người am hiểu về luật pháp, có uy tin cao hoặc thông qua hòa giải viên cơ sở. Khởi kiện tại Tòa Đây là phương pháp giải quyết tranh chấp dựa trên thủ tục tố tụng dân sự thông qua tòa án. Kết quả giải quyết sẽ được đảm bảo thi hành án bởi cơ quan nhà nước. Tuy nhiên, khi lựa chọn cách này, bạn sẽ phải nộp tiền tạm ứng phí, án phí, tốn nhiều thời gian và công sức. Quá trình khởi kiện phức tạp và tốn nhiều thời gian, công sức Có thể bạn cần biết Mẫu biên bản hòa giải tranh chấp đất đai chuẩn nhất 2022 Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và quy định cụ thể Quy định pháp luật trong giải quyết tranh chấp đất đai giữa anh em ruột Trên đây là toàn bộ thông tin liên quan tới tranh chấp hợp đồng đặt cọc mua bán nhà mà bạn có thể tham khảo. Mong rằng, bài viết đã giúp bạn nắm rõ được các quy định của pháp luật về đặt cọc và một số cách giải quyết khi phát sinh những tranh chấp. Phan Nguyên Việt sinh năm 1985 tại Phú Yên. Tốt nghiệp đại học bách khoa chuyên ngành trắc địa bản đồ thuộc khoa xây dựng niên khóa 2003- 2008. Tôi khởi nghiệp thương hiệu thuộc sở hữu công ty TNHH Hợp Nhất Bách Việt chuyên cung cấp dịch vụ đo đạc địa chính và khảo sát địa hình.
tranh chấp tiền đặt cọc thuê nhà